TỔNG CÔNG TY BA SON

BA SON CORPORATION

XNLH Ba Son, Anh hùng LLVT ND thời kỳ đổi mới

Xí nghiệp liên hợp Ba Son được xây dựng từ tháng 4/1863 (trước đây là Nhà máy Ba Son, Xưởng Ba Son; do thực dân Pháp xây dựng để sửa chữa các chiến thuyền và các loại tàu biển phục vụ cho công cuộc xâm lược nước ta và khai thác tài nguyên ở các nước Đông dương và khu vực Đông Nam Á; cuối năm 1954, Nhà máy Ba Son đặt dưới sự quản lý của Mỹ-Ngụy). Là một đơn vị có lịch sử lâu đời và truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang, gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, nơi ra đời của tổ chức Công hội bí mật – tiền thân của tổ chức Công đoàn Việt Nam, nơi Chủ tịch Tôn Đức Thắng và nhiều đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội từng làm thợ và hoạt động cách mạng. “Ba Son” – Tên gọi của XNLH Ba Son đã trở thành một biểu tượng trong lòng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và nhân dân cả nước.

Sau ngày miềm Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) XNLH Ba Son phát huy truyền thống giai cấp công nhân Việt nam, đoàn kết, kiên cường khắc phục mọi khó khăn, vượt qua thử thách tổ chức lại lực lượng, tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ quản ly, kỹ thuật và công nhân lành nghề, đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc, xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng v.v. đã sửa chữa và đóng mới tàu cùng các phương tiện nổi, đảm bảo cho quân chủng Hải quân hoạt động, góp phần bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo và thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế biển giàu tài nguyên của Tổ quốc. Đặc biệt, trong các chiến dịch lớn của Quân đội (Chiến dịch Tây Nam 1978, Chiến dịch CV 1987, CQ 1988), CB, CNV XNLH Ba Son đã làm việc quên mình không kể ngày đêm để hoàn thành những khối lượng công việc khổng lồ trong thời gian ngắn, đảm bảo yêu cầu chiến đấu của quân chủng Hải quân và Bộ quốc phòng. Hàng trăm CB.CNV trực tiếp trên các tàu Hải Quân để tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Ngoài nhiệm vụ chính là đóng và sửa chữa tàu chiến đấu đảm bảo lực lượng tàu cho Hải quân hoạt động, Ba Son đã tận dụng năng lực còn lại tham gia làm kinh tế, đóng và sửa chữa tàu trong nước và xuất khẩu. Trong 10 năm gần đây, Xí nghiệp đã có những bước đột phá quan trọng. Tốc độ phát triển bình quân hàng năm tăng từ 19-25%, thu nhập và đời sống CB.CN không ngừng được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo các khoản thu nộp ngân sách cho Nhà nước và quân đội. Từ những khó khăn ban đầu tưởng chừng như không thể vượt qua, đến nay, Xí nghiệp đã trở thành đơn vị dẫn đầu ngành công nghiệp đóng tàu quân sự Việt Nam và ngành công nghiệp quốc phòng nói chung.

Về tổ chức có 21 đơn vị trực thuộc, trong đó có: 10 Xưởng sản xuất, chi nhánh và cơ sở dịch vụ, 11 phòng chức năng thực hiện công tác quản lý; có 1543 CB.CNV, trong đó: 468 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, 1077 CNV quốc phòng.

Nhiệm vụ chính của XNLH Ba Son hiện nay là đóng mới tàu chiến đấu trọng tải đến 2000 tấn; đóng mới tàu bổ trợ quân sự, tàu chuyên dụng và phương tiện nổi các loại có tải trọng đến 10.000 tấn; sửa chữa trang bị kỹ thuật, phương tiện tàu thuyền quân sự hoạt động tại vùng biển, đảo phía Nam và tàu vận tải các loại có lượng giãn nước đến 70.000 tấn; bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến của Quân chủng Hải quân theo nhiệm vụ được giao; đóng mới, sửa chữa tàu và phương tiện nổi phục vụ nền kinh tế quốc dân, xuất khẩu; hoạt động SXKD thuộc lĩnh vực cơ khí, dịch vụ cảng biển theo chức năng ngành nghề của doanh nghiệp và làm dịch vụ kinh tế, kinh doanh những ngành nghề được Bộ Quốc phòng phê duyệt; thực hiện các nhiệm vụ do cấp trên giao.

NHỮNG THÀNH TÍCH ĐẶC BIỆT XUẤT SẮC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1. Hoàn thành đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ nghiên cứu, sửa chữa, đóng mới thành công nhiều loại tàu quân sự hiện đại, có yêu cầu kỹ thuật cao, phức tạp, có trang bị vũ khí, khí tài hiện đại, hoạt động dài ngày trên biển, phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; góp phần nâng cao năng lực, sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng, tăng cường tiềm lực quân sự và sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đã nghiên cứu sửa chữa khôi phục thành công 03 tàu hộ vệ chống ngầm 159AE (HQ09, HQ13, HQ17). Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp kể cả vật tư, phụ tùng, thiết bị đặc chủng, công nghệ và tài chính. Trong tình hình Hải quân cần các loại tàu có lượng dãn nước lớn, có khả năng hoạt động dài ngày trên biển, các vũ khí – khí tài đồng bộ. Đây là những tàu chủ lực trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và SSCĐ của Vùng 4 Hải quân và là loại tàu săn ngầm có khả năng phát hiện và tiêu diệt mục tiêu ngầm. Do vậy, việc sửa chữa các tàu hộ vệ chống ngầm là một đòi hỏi cấp bách của Hải quân, nhất là trong điều kiện chúng ta chưa thể đóng mới ngay được các loại tàu có tính năng tương tự; về góc độ kinh tế, ngân sách quốc phòng còn hạn hẹp, nếu sửa chữa phục hồi 01 tàu có tính năng tương tự các tàu HQ13, HQ17 ở nước ngoài hoặc khôi phục tại Nga, Ucraina phải hơn 80 triệu USD/01 chiếc, nhưng với kinh phí sửa chữa tại Ba Son chỉ xấp xỉ 50 tỷ đồng/1 tàu, đã phục hồi bảo đảm các tính năng kỹ chiến thuật ban đầu như: độ bền thân vỏ, tốc độ toàn tải, tính cơ động, hệ thống vũ khí khí tài được tích hợp đồng bộ cũng như thời gian hoạt động trên biển nhiều ngày. Việc khôi phục thành công các tàu hộ vệ chống ngầm nêu trên, góp phần đảm bảo lượng tàu cần thiết để Hải quân bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo của Tổ quốc.

- Cùng với việc sửa chữa các loại tàu cho Hải quân, Ba Son đã thực hiện nhiều dự án đóng mới tàu quân sự gồm tàu chiến đấu và tàu vận tải quân sự. Từ năm 1999 đến năm 2009, Ba Son đã đóng mới 3 tàu vận tải quân sự có lượng dẫn nước từ 1000 đến 6500 tấn, 02 tàu cá vũ trang. Đặc biệt là đơn vị đầu tiên đóng mới thành công tàu cao tốc vỏ nhôm hiện đại, có tính cơ động cao, linh hoạt (tàu có khả năng quay vòng tròn tại chỗ, cập bến bằng di chuyển ngang; đang tiến có thể lùi với tốc độ cao ngay trong thời gian chưa đầy 2 phút) và trang bị vũ khí – khí tài hiện đại, hỏa lực mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cảnh sát biển và đóng mới 03 tàu cao tốc vỏ thép trang bị cho Cảnh sát biển, góp phần nâng cao tiềm lực, khả năng chiến đấu của hải quân và cảnh sát biển trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự vùng biển đảo của Tổ quốc.

- Đặc biệt đã đóng mới thành công tàu tên lửa cao tốc PS-500 (HQ381) hiện đại đầu tiên. Tàu có sức cơ động cao, trang bị hoả lực mạnh, được chỉ huy tác chiến bằng điện tử với hệ thống vũ khí-khí tài đồng bộ, có khả năng phát hiện và tiêu diệt mục tiêu trên không và trên biển ở cự lý 120 km, bổ sung vào đội hình, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Hải Quân. Hiện tại Ba Son cùng LB Nga đã đóng mới xong 02 tàu tên lửa hiện đại 12418 tại LB Nga, đã bàn giao đưa vào đội hình chiến đấu của Hải quân. Hiện nay Xí nghiệp đã tiếp nhận công nghệ, vật tư đang triển khai đóng tại XN loạt (06 chiếc) tàu tên lửa hiện đại 12418. Đây là loại tàu tên lửa hiện đại nhất của Hải quân ta. Việc đóng thành công tàu chiến hiện đại có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ sản xuất quốc phòng, nâng cao tiềm lực quốc phòng của Đất nước, thể hiện khả năng tự lực, tự cường và chủ động trong xây dựng và phát triển CNQP, trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

2. Năng động, sáng tạo chuyển đổi cơ chế, tận dụng năng lực hiện có tham gia đóng mới, sửa chữa tàu biển và các phương tiện nổi cho các đơn vị kinh tế trong nước và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng.

- Ngoài nhiệm vụ đóng và sửa chữa tàu quân sự cho Hải quân, tận dụng năng lực về lao động, thiết bị tham gia làm kinh tế đạt hiệu quả cao, góp phần vào sự phát triển kinh tế-XH chung của đất nước, bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của CB.CNV, nâng cao trình độ, xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sản xuất quốc phòng luôn biến động và ngày càng cao.

Doanh thu sản phẩm kinh tế từ năm 1999 đến năm 2009 tăng 3,37 lần (112,982 tỷ đồng/381,242 tỷ đồng). Giá trị xuất khẩu từ năm 1999 đến 2009 là 156,727 tỷ đồng.

3. Là đơn vị dẫn đầu Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trong việc đầu tư, trang bị phương tiện, máy móc hiện đại; nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sửa chữa, đóng mới tàu quân sự.

- Hàng năm, ngoài nguồn vốn ngân sách, Xí nghiệp đã dùng vốn tự có đầu tư mua sắm trang thiết bị, nâng cao năng lực, với số tiền bình quân 3 tỷ đồng/năm. Cùng với việc đầu tư trang thiết bị, máy móc, CBCNV Xí nghiệp bằng kiến thức khoa học, kinh nghiệm và yêu cầu thực tế trong sản xuất đã nghiên cứu và ứng dụng nhiều các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào quá trình sản xuất của Xí nghiệp. Từ năm 1999 đến năm 2009 đã có 32 đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có 11 đề tài cấp Xí nghiệp, 08 đề tài cấp Tổng cục, 11 đề tài cấp Bộ QP và 02 đề tài cấp Nhà nước về các lĩnh vực: quản lý, kỹ thuật công nghệ đóng tàu và bảo vệ môi trường,… Xí nghiệp liên hợp Ba Son luôn là đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Từ năm 1999 đến 2009 CBCNV Xí nghiệp đã có 114 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, với giá trị làm lợi hơn 15,6 tỷ đồng.

Với những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất đã 108 CBCNV của Xí nghiệp được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng bằng “Lao động sáng tạo” (riêng từ năm 1999 đến 2009 là 32 người) và được Nhà nước tặng “Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ” và nhiều Bằng, Giấy khen của Tổng cục CNQP, Bộ Quốc phòng.

4. Thường xuyên làm tốt công tác xây dựng tổ chức Đảng TSVM, đơn vị VMTD; chăm lo cải thiện, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của CBCNV và người lao động; chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, kỷ luật quân đội; có nhiều thành tích trong thực hành tiết kiệm, cải cách hành chính quân sự, bảo vệ môi trường.

a) Chăm lo xây dựng nguồn lực:

Xí nghiệp luôn đi dầu trong việc quan tâm bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ. Trước những năm 1999, bình quân bậc thợ đạt 3,5/7, thợ bậc cao của XN chiếm 14%, trong tổng số cán bộ, CNV XN; Số cán bộ, CN có trình độ sau Đại học, Đại học và cao đẳng chiếm 4,06%. Bằng nhiều biện pháp và hình thức bồi dưỡng, đào tạo, từ năm 1999 đến năm 2009 Xí nghiệp đã đào tạo 163 công nhân kỹ thuật mới; đào tạo lại 55 CBCNV; Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho 756 lượt CBCNV; đào tạo về kiến thúc tin học và ngoại ngữ cho 366 CBCNV; bồi dưỡng nâng bậc cho 2291 lượt công nhân kỹ thuật; gửi các trường Quân đội đào tạo về lý luận chính trị cho 45 cán bộ; gửi ra nước ngoài đào tạo tiếp nhận chuyển giao công nghệ đóng tàu chiến cho 268 CBCNV…

Từ những chủ trương, biện pháp và những việc làm cụ thể, đến nay bình quân bậc thợ của XN đạt 4,5/7, thợ bậc cao chiếm 43,05%, Trong đó, trình độ sau đại học, ĐH, CĐ từ 7,21% năm 1999 lên 14,70% năm 2009; đội ngũ thợ bậc cao từ 25,9% năm 1999 lên 42,22% năm 2009. Với trình độ hiện có của đội ngũ cán bộ, CNV, Xí nghiệp trong 10 năm qua đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ SXQP, SXKD được giao.

b) Luôn đi đầu trong việc chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và kỷ luật Quân đội; quản lý tốt cơ sở vật chất, tài sản của Nhà nước, của đơn vị.

Xí nghiệp đã tổ chức quán triệt, triển khai học tập, nghiên cứu nghiêm túc các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Pháp luật, các chế độ chính sách của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, các quy định của Bộ Quốc phòng, của Tổng cục CNQP và những nội quy, quy định của đơn vị đến các đối tượng. Đặc biệt coi trọng việc giáo dục, quản lý toàn diện đối với cán bộ, đảng viên và đội ngũ CNV lành nghề. Vì vậy, trong 10 năm qua đơn vị an toàn tuyệt đối về chính trị.

Công tác quản lý, thu- chi tài chính được thực hiện nghiêm ngặt, đúng nguyên tắc theo quy định hiện hành của pháp luật Nhà nước và quy định của BQP. Trong 10 năm qua XN không có sự thâm hụt; nguồn vốn từ 120 tỷ VNĐ năm 1999 tăng lên gần 600 tỷ VNĐ năm 2009. Hàng năm được BQP, Bộ Tài chính và UBND TPHCM khen thưởng về thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước và địa phương.

c) Cán bộ, CNVQP và người lao động của XNLH Ba Son luôn là một khối đoàn kết, thống nhất cao; thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD, các tổ chức quần chúng VMXS, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Không ngừng chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho CBCNV và người lao động trong Xí nghiệp.

XNLH Ba Son luôn chấp hành và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch công tác Đảng, công tác chính trị, tập trung tổ chức Đảng TSVM, gắn với xây dựng đơn vị VMTD; phát huy quyền làm chủ tập thể của CBCNV trong tham gia quản lý các hoạt động và SXKD của XN; đã tạo nên sự thống nhất cao về nhận thưc, tư tưởng và hành động, đoàn kết phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và xây dựng đơn vị ổn định, phát triển. Hoạt động của các tổ chức quần chúng trong Xí nghiệp có nề nếp, hiệu quả... và đạt tiêu chuẩn VMXS.

Luôn chăm lo bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đới sống của CBCNV. Mặc dù trước những khó khăn, nhưng luôn đảm bảo đủ việc làm thường xuyên cho công nhân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm đều tăng (năm 1999 là 1.131.640đồng/người/tháng, đến năm 2009 là 5.193.000đồng/người/tháng; tăng gấp 4,6 lần so với năm 1999. Thực hiện tốt các chính sách đối với người lao động và hậu phương của CBCNV. Phong trào VHVN, TDTT được duy trì thường xuyên, hàng năm vào các ngày lễ, ngày kỷ niệm truyền thống… Xí nghiệp đã chi cho việc an dưỡng, nghỉ mát, thăm hỏi, hiếu hỷ, trợ cấp khó khăn, chăm sóc thêíu niên, nhi đồng là con CBCNV với số là 11.431.639.000đ, trong đó:

d) Thường xuyên quan hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân; tích cực tham gia các phong trào của địa phương; ủng hộ, giúp đỡ nhân dân góp phần xoá đói, giảm nghèo ở địa phương và các địa bàn căn cứ cách mạng,… làm tốt công tác dân vận được cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân mến phục.

Vị trí đóng quân của Xí nghiệp tiếp giáp với 3 phường thuộc 3 quận của TP.Hồ Chí Minh, chính vì vậy, Xí nghiệp đã thường xuyên quan hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân, giữ vững mối đoàn kết gắn bó chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương; luôn gương mẫu chấp hành tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia tích cực các hoạt động phong trào của địa phương đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn. Bằng nhiều hình thức và phong trào góp phần cùng điạ phương trong chăm lo cho giáo dục, đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo. Từ năm 1999 đến 2009 Xí nghiệp đã chi cho các hoạt động trên với số tiền là 3.517,223 triệu đồng; phụng dưỡng 17 bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp các gia đình chính sách, các tổ chức xã hội, thiên tai bão lụt và hoạt động xã hội khác, với tổng số tiền là 3.357,9 triệu đồng; xây dựng 07 “Nhà tình nghĩa” và “Nhà đồng đội” tặng cho các gia đình chính sách tại địa phương; đóng góp vào Chương trình 1500 nhà đồng đội của BQP là 570.000.000đ

e) Bảo vệ môi trường

Với mặt bằng rộng 22ha nhưng Xí nghiệp đã luôn chú trọng cải tạo môi trường và phát động phong trào “xanh, sạch, đẹp, an toàn, văn minh” trong nhiều năm. Thường xuyên áp dụng nhiều biện pháp bảo vệ môi trường, các chất thải được thu gom và xử lý đúng với quy trình bảo đảm tiêu chuẩn an toàn về môi trường. Định kỳ các cơ quan: Chi cục bảo vệ môi trường Đông Nam bộ thuộc Bộ TNMT, Thanh tra môi trường của Sở TNMT Thành phố Hồ Chí Minh, Cục khoa học công nghệ và môi trường BQP kiểm tra đánh giá đều có kết luận tốt.